Dị dạng tai trong là gì? Các công bố khoa học về Dị dạng tai trong

Dị dạng tai trong là một trạng thái của tai trong khiến người bị mất khả năng nghe hay nghe kém. Nó có thể ảnh hưởng đến một hoặc cả hai tai. Dị dạng tai trong ...

Dị dạng tai trong là một trạng thái của tai trong khiến người bị mất khả năng nghe hay nghe kém. Nó có thể ảnh hưởng đến một hoặc cả hai tai. Dị dạng tai trong có nhiều nguyên nhân gây ra như sự cốt lõi, di truyền, nhiễm trùng, chấn thương, sử dụng thuốc lá hoặc các chất gây nghiện, tuổi tác, tiếp xúc với âm thanh ồn ào quá mức, và nhiều nguyên nhân khác. Có thể điều trị hoặc giảm thiểu tình trạng dị dạng tai trong thông qua việc sử dụng thiết bị trợ thính, thuốc, phẫu thuật hoặc các phương pháp khác tùy thuộc vào nguyên nhân gây ra.
Dị dạng tai trong là một tình trạng lâm sàng khi tai bị mất khả năng nghe hoặc có hiệu chỉnh nghe kém. Đối với nhiều người, tình trạng này là vĩnh viễn, trong khi đối với một số người khác, nó có thể là tạm thời.

Nguyên nhân gây ra dị dạng tai trong rất đa dạng. Một số nguyên nhân chính bao gồm:

1. Sự cốt lõi: Sự cốt lõi có thể gây ra việc mất khả năng nghe bởi vì nó ảnh hưởng đến các cấu trúc và chức năng của tai. Ví dụ, sự cốt lõi có thể là do tăng áp lực nội tai, viêm xoang phức tạp, chấn thương đầu, khối u hoặc khối u không ác tính trong tai.

2. Di truyền: Một số dị dạng tai trong có thể do các yếu tố di truyền. Các gen lỗi hoặc đột biến có thể ảnh hưởng đến phát triển và chức năng của tai, gây ra mất khả năng nghe. Ví dụ, dạng di truyền phổ biến nhất của dị dạng tai trong là dạng di truyền không hoàn chỉnh, thường gặp ở trẻ em.

3. Nhiễm trùng: Nhiễm trùng như viêm tai giữa cũng có thể gây ra mất khả năng nghe tạm thời hoặc vĩnh viễn. Những vi khuẩn, virus hoặc nấm trong tai gây ra viêm nhiễm và làm hại các cấu trúc quan trọng trong tai.

4. Chấn thương: Chấn thương tai do tai nạn, tai nạn lao động hoặc hoạt động thể thao có thể gây ra mất khả năng nghe. Ví dụ, việc bị đập vào tai mạnh có thể gây vỡ xương chũm, làm hỏng màng nhĩ và gây ra tổn thương nội tại tai.

5. Thuốc lá và chất gây nghiện: Sử dụng thuốc lá, rượu và các chất gây nghiện khác có thể gây hại cho hệ thần kinh và các cấu trúc tai, gây ra mất khả năng nghe.

6. Tiếp xúc với âm thanh ồn ào: Tiếp xúc liên tục hoặc không bảo hộ với âm thanh ồn ào quá mức có thể làm hỏng tạm thời hoặc vĩnh viễn các cấu trúc tai, gây ra mất khả năng nghe.

Các phương pháp điều trị dị dạng tai trong phụ thuộc vào nguyên nhân gây ra. Điều trị có thể bao gồm sử dụng thiết bị trợ thính để giúp người bệnh nghe tốt hơn, việc sử dụng thuốc như kháng viêm, thuốc kháng histamin, hoặc phẫu thuật để sửa chữa các tình trạng thể nội tai. Trong một số trường hợp, không có phương pháp điều trị đặc hiệu cho nguyên nhân cụ thể.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "dị dạng tai trong":

Nhiều Con Đường Tái Tổ Hợp Do Gãy Kép Dẫn Xuất Trong Saccharomyces cerevisiae Dịch bởi AI
Microbiology and Molecular Biology Reviews - Tập 63 Số 2 - Trang 349-404 - 1999
TÓM TẮT

Nấm men chồi Saccharomyces cerevisiae đã được sử dụng như là sinh vật chính trong các thí nghiệm nhằm nghiên cứu tái tổ hợp di truyền ở sinh vật nhân thực. Các nghiên cứu trong thập kỷ qua đã chỉ ra rằng tái tổ hợp trong giảm phân và khả năng là phần lớn các tái tổ hợp trong nguyên phân phát sinh từ quá trình sửa chữa gãy chuỗi kép (DSB). Có nhiều con đường theo đó DSB có thể được sửa chữa, bao gồm một số con đường tái tổ hợp đồng dạng và một số cơ chế không đồng dạng. Sự hiểu biết của chúng ta cũng đã được làm phong phú hơn nhờ việc đặc trưng hóa nhiều protein liên quan đến tái tổ hợp và nhờ vào các khám phá kết nối các khía cạnh của sửa chữa DNA với sự nhân đôi nhiễm sắc thể. Các mô hình phân tử mới về chuyển đổi gene do DSB gây ra được trình bày. Bài báo này bao quát các khía cạnh khác nhau của tái tổ hợp do DSB gây ra trong Saccharomyces và cố gắng liên hệ các nghiên cứu di truyền, sinh học phân tử và hóa sinh của các quá trình sửa chữa và tái tổ hợp DNA.

#Saccharomyces cerevisiae #tái tổ hợp di truyền #gãy chuỗi kép (DSB) #giảm phân #nguyên phân #tái tổ hợp đồng dạng #sửa chữa DNA #nhân đôi nhiễm sắc thể
Trường ứng suất và biến dạng hiện tại trong khu vực đảo Sulawesi (Indonesia): Hệ quả địa động học Dịch bởi AI
Bulletin - Societie Geologique de France - Tập 174 Số 3 - Trang 305-317 - 2003
Tóm tắt

Đảo Sulawesi, phía đông Indonesia, nằm ở ngã ba giữa các mảng Thái Bình Dương - Philippines, Indo-Úc và khối Sunda, tức là rìa đông nam của mảng Á-Âu (hình 1). Hình dạng đặc biệt của nó là kết quả từ lịch sử phức tạp về va chạm và xoay chuyển của mảng lục địa, vòm đảo và các lãnh thổ biển đối với khối Sunda. Mạng lưới địa chấn ghi nhận mức độ hoạt động địa chấn cao ở biên giới phía bắc, tương ứng với sự biến dạng dọc theo rãnh Bắc Sulawesi và trong phạm vi sự chìm lặng của biển Molucca (hình 1). Hoạt động địa chấn thấp hơn ở trung tâm và nam Sulawesi (hình 4). Điều này đại diện cho hoạt động của các nhánh đẩy đông bắc, tây nam và đông nam và hệ thống đứt gãy trượt ngang trung tâm Sulawesi, bao gồm các vùng đứt gãy Palu-Koro và Matano. Hệ thống này kết nối, từ tây bắc đến đông nam, khu vực chìm lún Bắc Sulawesi với đứt gãy Sorong (thông qua đứt gãy Sud Sula, theo sau Hinschberger et al. [2000] và đẩy Tolo ở Bắc Banda Sea, Silver et al., [1983] đã đề xuất một mô hình biến dạng ngụ ý một sự quay ngược chiều kim đồng hồ của khối Sula bị giới hạn về phía tây và nam bởi hệ thống đứt gãy trung tâm Sulawesi. Các nghiên cứu từ trường cổ [Surmont et al., 1994] và GPS [Walpersdorf et al., 1998a] đã xác nhận và đo lường sự quay này. Để thảo luận về động học và biến dạng hiện tại của khu vực Sulawesi, chúng tôi đã thực hiện một nghiên cứu địa chấn, sử dụng cơ chế tiêu điểm của trận động đất nông vừa và lớn (Mw ≥ 5) (≤ 60 Km), thu thập từ cơ sở dữ liệu CMT Harverd (giai đoạn 1976 đến 2001) và được bổ sung bởi Fitch [1972] và Cardwell [1980] (giai đoạn 1964–1976). Từ các cơ chế tiêu điểm này và bối cảnh cấu trúc đã biết, chúng tôi đã định nghĩa ra mười miền biến dạng đồng nhất (hình 3 và hình 5). Đối với bảy trong số đó, các giải pháp tiêu điểm và các mô men trận được đảo ngược (phương pháp Carey-Gailhardis và Mercier [1987Phương pháp Carey-Gailhardis và Mercier [1992]) và được tổng hợp, để có được các tensor ứng suất và biến dạng và ước lượng tỷ lệ (phương pháp Brune [1968] hoặc Kostrov [1974]). Kết quả được trình bày trong bảng I, trên hình 2 và hình 3.

Tại vùng biển phía bắc Molucca (bắc xích đạo), tỷ lệ trượt nhanh (75 mm/năm) được hấp thụ bởi sự chìm Sangihe và điều tiết phần chuyển động chính của các mảng Philippines/Sunda. Phía nam đường xích đạo, tỷ lệ trượt ước tính chỉ là 2 mm/năm và đại diện cho sự chìm lặng của mặt Sangihe bị ảnh hưởng bởi sự xoay từ NNE sang hướng E. Dọc theo hệ thống nứt gãy Bắc Sulawesi, hướng của các trục ứng suất không khác biệt đáng kể từ đông sang tây (trung bình N356°±5Đ), nhưng tỷ lệ trượt xác định tăng từ 20±4 mm/năm lên đến 54±10 mm/năm tương ứng. Các giá trị này đồng ý với cực quay khối Sula được đề xuất trước đó và nằm ở cực đông của nhánh Bắc. Đứt gãy Palu-Koro, giới hạn khối tây Sula, đóng góp vào sự quay này vì dấu vết của nó phù hợp với một đường tròn nhỏ nằm ở cực. Tuy nhiên, tài liệu về địa chấn có ít trận động đất cường độ vừa (hình 4) liên quan đến hệ thống nứt gãy trung tâm Sulawesi bên trái, dù có nhiều đặc điểm địa chấn học được xác định [Beaudouin, 1998]. Hơn nữa, tỷ lệ trượt dài hạn của nứt gãy Palu-Koro được xác định địa chất là 35±8 mm/năm, [Bellier et al., 2001] đồng ý với tỷ lệ trượt trục xa 32–45 mm/năm được đề xuất từ các nghiên cứu GPS [Walpersdorf et al., 1998b ; Stevens et al., 1999]. Điều này khẳng định rằng nó là một đứt gãy trượt nhanh với mức độ địa chấn tương đối thấp. Giới hạn đông nam của khối Sula được biểu thị bằng đứt gãy trượt Sorong theo hướng ENE kéo dài từ đảo Irian-Jaya đến bờ biển đông Sulawesi nơi nó kết nối với đứt gãy Matano thông qua đứt gãy South Sula, Cấu trúc này đặc biệt hoạt động mạnh ở phía nam của đảo Sula với một trận động đất lớn Mw=7.7 (29/11/98). Điều này đã đưa ra một chế độ trục σ1 và σ3 theo hướng lần lượt N220°Đ và N310°Đ.

Nghiên cứu này cũng nổi lên sự biến dạng nội bộ của khối Sula có thể giải thích trong mô hình tốc độ GPS thu được bởi Walpersdorf et al. [1998a] cho sự quay khối Sula. Chúng tôi chỉ ra một chế độ căng duỗi với trục σ3 hướng N030°Đ, ở phần nam của vịnh Tomini. Tỷ lệ mở rộng ước tính là 9 mm/năm về hướng N036°Đ. Xem xét vị trí của vịnh Tomini, sự biến dạng này có thể được hiểu là một vòng cung kéo dài trở về phía sau liên quan đến khu vực chìm lún Bắc Sulawesi. Vùng Batui tương ứng với miền va chạm xảy ra trong Pliocen đầu-trung [ví dụ: Velleneuve et al., 2000] giữa nhánh NE và khối Banggaï-Sula xuất phát từ Irian-jaya. Miền này vẫn hoạt động (12 trận động đất với một lớn nhất Mw=7.6, 14/05/00, hình 4) nhưng chủ yếu bị ảnh hưởng bởi biến dạng trượt ngang.

Đẩy Tolo, nằm ở ngoài khơi bờ biển đông nhánh SE, hấp thụ sự hội tụ về phía tây của biển Bắc Banda, như được chứng thực bởi sáu trận động đất vừa phải với các cơ chế tiêu điểm gãy nghịch. Điều này cho phép phân biệt một khối Bắc-Banda ở SE Sulawesi, giới hạn bởi đoạn Sula Nam của đứt gãy Sorong, đẩy Tolo và đứt gãy Hamilton (hình 5) và di chuyển về phía tây với một tốc độ thấp hơn so với khối Sula. Nhánh SW của Sulawesi cũng được đặc trưng bởi một chế độ ứng suất nén trục N099°Đ và một tỷ lệ hội tụ ước tính 8,5 mm/năm về hướng N080°Đ. Đây là hệ quả của hoạt động đẩy Majene-Kalosi và có thể đại diện cho khu vực điều tiết nhất phía tây của chuyển động các mảng Philippines/Sunda.

#Sulawesi #địa chấn #địa động học #mảng kiến tạo #va chạm #biến dạng
VAI TRÒ CỦA CẮT LỚP VI TÍNH VÀ CỘNG HƯỞNG TỪ XƯƠNG THÁI DƯƠNG TRONG CHỈ ĐỊNH CẤY ỐC TAI ĐIỆN TỬ
Mục đích: Mô tả đặc điểm hình ảnh cắt lớp vi tính (CLVT) và cộng hưởng từ (CHT) xương thái dương bệnh nhân (BN) điếc tiếp nhận để lựa chọn BN cho phẫu thuật cấy ốc tai điện tử (OTĐT). Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: mô tả đặc điểm hình ảnh tai trong, dây thần kinh (TK) ốc tai kết hợp với thính lực để đưa ra chỉ định cấy ốc tai điện tử ở 132 BN nhi điếc tiếp nhận. Hình ảnh dây TK ốc tai được đánh giá trên chuỗi xung cộng hưởng từ T2 3D gradient-echo phân giải cao. Hình ảnh tai trong được đánh giá trên CHT và CLVT phân giải cao.Kết quả: nghiên cứu gồm 132 BN với 264 tai trong đó 161 tai (61%) không dị dạng tai trong, 34 tai (12,9%) ốc tai bình thường có bất thường TK ốc tai, 65 tai (24,6%) dị dạng tai trong và 4 tai (1,5%) cốt hoá mê đạo. Những BN bất sản TK ốc tai và không có sóng V ABR, BN dị dạng nặng ốc tai, BN cốt hoá ốc tai mức độ nặng không còn chỉ định cấy OTĐT.Kết luận: chỉ định cấy ốc tai điện tử phụ thuộc vào tình trạng tai trong và sự có mặt của dây TK ốc tai trên hình ảnh hoặc đáp ứng thính giác trên thính lực.
#dị dạng tai trong #bất thường thần kinh ốc tai #chỉ định cấy ốc tai điện tử
ĐA DẠNG NGUỒN TÀI NGUYÊN CÂY THUỐC ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC BRU-VÂN KIỀU Ở XÃ THƯỢNG TRẠCH, HUYỆN BỐ TRẠCH, TỈNH QUẢNG BÌNH
TNU Journal of Science and Technology - Tập 207 Số 14 - Trang 3-9 - 2019
Nghiên cứu này được tiến hành nhằm đánh giá đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc ở xã Thượng Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Các phương pháp sử dụng gồm có: thu thập mẫu vật, phỏng vấn, định tên loài, đánh giá tính đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc và đánh giá mức độ nguy cấp của các loài cây thuốc. Kết quả nghiên cứu bước đầu đã xác định được 52 loài cây thuốc thuộc 50 chi, 41 họ được cộng đồng dân tộc ở khu vực nghiên cứu sử dụng trong phòng và chữa bệnh cho người dân. Cây thuốc thuộc 5 dạng sống chính như: cây bụi, dây leo, thân thảo, cây gỗ nhỏ và cây gỗ nhỡ. Cây thường phân bố ở các dạng sinh cảnh như: sống ở rừng, sống ven sông ven suối, sống ở vườn, sống ở đồi. Trong các bộ phận được sử dụng làm thuốc thì rễ và lá được sử dụng nhiều nhất chiếm 25% - 44,23%. Đã điều tra được 14 nhóm bệnh sử dụng cây thuốc để chữa trị, trong đó có 3 nhóm bệnh chiếm tỷ lệ cao nhất là bệnh về khớp, bệnh đau lưng và thuốc bổ. Ba loài cây thuốc có nguy cơ bị tuyệt chủng đã được ghi nhận là: Đẳng sâm ( Conodopsis javanica (Blume) Hook.f.), Sâm cau ( Curculigo orchioides Gaertn) và Thiên niên kiện lá to ( Homalomena gigantea Engl). Kết quả nghiên cứu là cơ sở khoa học trong việc bảo tồn các loài cây thuốc có nguy cơ bị tuyệt chủng tại đại phương.
#Biology #Medicinal plants #Diversity of medicinal plants #Thuong Trach commune #Bo Trach district #Quang Binh province
NGHIÊN CỨU ĐA DẠNG NGUỒN TÀI NGUYÊN CÂY THUỐC ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG CỘNG ĐỒNG MỘT SỐ DÂN TỘC Ở XÃ YÊN LẠC, HUYỆN PHÚ LƯƠNG, TỈNH THÁI NGUYÊN
TNU Journal of Science and Technology - Tập 187 Số 11 - Trang 137-144 - 2018
Nghiên cứu này được tiến hành nhằm đánh giá đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc ở xã Yên Lạc, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên. Các phương pháp sử dụng gồm có: Thu thập mẫu vật, phỏng vấn, định danh tên loài, đánh giá tính đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc và đánh giá mức độ nguy cấp của các loài cây thuốc. Kết quả nghiên cứu bước đầu đã xác định được 182 loài cây thuốc thuộc 158 chi, 89 họ được cộng đồng dân tộc ở khu vực nghiên cứu sử dụng trong phòng và chữa bệnh cho người dân. Cây thuốc thuộc 6 dạng sống chính gồm: Thân thảo, dây leo, cây gỗ nhỏ, cây gỗ trung bình, cây bụi và cây ký sinh. Cây thường phân bố ở các dạng sinh cảnh là: Sống ở rừng, sống ở vườn, sống ở đồi và sống ven suối, ven sông. Trong các bộ phận được sử dụng làm thuốc thì lá, cả cây và quả được sử dụng nhiều nhất và đạt từ 16,94% - 38,80%. Nghiên cứu này đã điều tra được 20 nhóm bệnh được chữa trị bằng kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của người dân ở khu vực nghiên cứu, trong đó có 4 nhóm bệnh chiếm tỷ lệ cao nhất là: Bệnh về thận, bệnh về xương khớp, bệnh ngoài da, bệnh về dạ dày. Có 4 loài cây thuốc có nguy cơ bị tuyệt chủng đã được ghi nhận là: Hà thủ ô đỏ - Fallopia multiflora (Thunb.) Haraldson, Thiên niên kiện tía - Homalomena cochinchinensis Engl, Kim ngân rừng - Lonicera bournei Hemsl.ex Forb, Sừng trâu - Strophanthus wallichii A. DC.
#Medicinal plants #Diversity of medicinal plants #Yen Lac Commune #Phu Luong District #Thai Nguyen Province.
Nghiên cứu xác định dạng tồn tại của asen (As) trong đất, rau má (Centella asiatica) và cải xanh (Brassica juncea) bằng phương pháp quang phổ hấp thu nguyên tử (AAS) kỹ thuật hydrua hóa (HG)
Vietnam Journal of Chemistry - Tập 45 Số 6 - 2012
Due to the high toxicity of arsenic and the poison effects to human being, identification and quantification of individual arsenic forms are important to appropriately measure the arsenic toxicity, environmental impact and health risk related to arsenic exposure. Arsenic species were quantified by HPLC-UV-HG-AAS. The separation was performed on an anion exchange Hamilton PRP-X100 (250 mm×4,1 mm i.d.×10 µm)  column by using mobile phase A: 12 mmol/l KH2PO4-K2HPO4; pH = 6.5 and B: 24 mmol/l KH2PO4-K2HPO4; pH = 6. The detection limits of arsenic species (As3+, DMA, MMA, As5+) with HPLC-UV-HG-AAS system was 5 ppbAs. The results indicated that arsenic presented in soil solution is arsenate As(V) and no methylation of arsenic taken place in the soil. There is a reduction of As(V) to As(III) in the root of Pennywort and Cabbage. Arsenic accumulation in the root of these plants was As(III) and no methylation of arsenic taken place in these plants.
Xác định đường giới hạn biến dạng tại điểm gãy trong quá trình tạo hình tấm tích phân Dịch bởi AI
The International Journal of Advanced Manufacturing Technology - Tập 92 - Trang 4445-4455 - 2017
Công nghệ sản xuất hỗ trợ máy tính được sử dụng rộng rãi trong ngành công nghiệp tạo hình tấm để dự đoán hiệu suất tạo hình. Tiêu chuẩn giới hạn tạo hình dựa trên biến dạng thường được sử dụng cho mục đích này. Trong quy trình tạo hình tấm tích phân, đường giới hạn tạo hình tại điểm gãy (FLCF) là một đường từ điểm biến dạng đồng nhất đến điểm biến dạng phẳng và có giá trị cao hơn so với các phương pháp tạo hình bằng máy nén thông thường. Nghiên cứu này nhằm mục đích xác định thực nghiệm FLCF, cụ thể là biến dạng đồng nhất tại điểm gãy mà vẫn chưa được xác định thực nghiệm. Ngoài ra, để xác nhận kết quả đo lường thực nghiệm, mô phỏng phần tử hữu hạn bằng ABAQUS/Explicit đã được thực hiện, trong đó đường cong chảy được điều chỉnh trong phạm vi biến dạng lớn, kèm theo hành vi chịu lực không liên kết cho thấy sự phù hợp tốt với thực nghiệm. Một phương trình ứng suất-biến dạng mới được giới thiệu để mô tả đường cong chảy trong phạm vi biến dạng lớn.
#công nghệ sản xuất hỗ trợ máy tính #tạo hình tấm tích phân #giới hạn tạo hình #phân tích phần tử hữu hạn #ứng suất-biến dạng
Truyền dữ liệu hình học 3D qua các kênh giao tiếp mất mát Dịch bởi AI
Proceedings. IEEE International Conference on Multimedia and Expo - Tập 1 - Trang 361-364 vol.1
Trong bài báo này, chúng tôi đề xuất một kỹ thuật truyền tải hình học 3D tiến trình có khả năng chịu đựng mất mát dữ liệu. Trong bước tiền xử lý, chúng tôi phân decomposed một mô hình lưới đa giác đã cho thành một tập hợp các hình ellipsoid chồng lên nhau, mô tả hình dạng thô của mô hình, và một luồng các điểm mẫu, mô tả chi tiết tinh vi của nó. Ở phía khách hàng, chúng tôi tạo ra một xấp xỉ thô của mô hình từ phép phân tích ellipsoid và sau đó chèn lại các điểm mẫu để tái tạo chi tiết tinh vi. Các hình ellipsoid chồng lấp cũng như các điểm mẫu đại diện cho các mảnh thông tin hình học độc lập, do đó, việc mất mát dữ liệu một phần có thể được thuật toán tái tạo của chúng tôi dung nạp và chỉ dẫn đến một sự suy giảm dần dần của chất lượng tái tạo. Chúng tôi trình bày một sơ đồ truyền tải đặc biệt phù hợp cho việc phát sóng hình học, nơi chúng tôi khai thác thực tế rằng thứ tự của các điểm mẫu có thể được hoán vị một cách tùy ý.
#Hình học #Kênh giao tiếp #Hình ellipsoid #Hình dạng #Thuật toán tái tạo #Hoạt hình #Khả năng chống chịu #Mất mát trong truyền dẫn #Truyền phát phương tiện #Đồ họa máy tính
Những thách thức khó nắm bắt trong quản lý sự thay đổi điện tử ở các nước đang phát triển Dịch bởi AI
Business Process Management Journal - Tập 10 Số 2 - Trang 140-157
Bài báo này xác định các rào cản chính trong việc triển khai thương mại điện tử và công nghệ thông tin ở các nước đang phát triển, với trọng tâm đặc biệt vào ba yếu tố quan trọng của một tổ chức – con người, quy trình và công nghệ. Vì việc chuyển đổi sang mô hình thương mại điện tử từ mô hình kinh doanh truyền thống là điều hết sức cấp thiết, bài báo này xem xét các thành phần thiết yếu của việc tái cấu trúc và phát hiện ra những trở ngại tiềm ẩn khác nhau tồn tại trong một tổ chức điển hình ở các nước đang phát triển. Nghiên cứu trực tuyến rộng rãi với phân tích so sánh, một nỗ lực để triển khai "chương trình quản lý doanh nghiệp thương mại điện tử" tại Bangladesh, một cố gắng bắt đầu thương mại điện tử từ quê hương, tư vấn và tìm hiểu các sách, tạp chí thương mại điện tử mới nhất, mạng lưới tổ chức thành viên quốc tế và 25 năm sống và làm việc ở các nước đang phát triển đã giúp thực hiện cuộc thám hiểm quan trọng này. Nghiên cứu tìm ra rằng điều kiện con người, các khía cạnh chính trị và các vấn đề môi trường là những yếu tố nghiêm trọng cho bất kỳ sự phát triển có ý nghĩa nào. Trong khi tái cấu trúc đòi hỏi sự quản lý toàn diện và nhất quán của ba yếu tố thiết yếu và sự phù hợp của chúng với chiến lược doanh nghiệp, các tổ chức ở các nước đang phát triển đang rất tụt hậu trong cuộc chuyển đổi triệt để này. Tương lai đang bị đe dọa của gần 5 tỷ người gửi đi một tín hiệu đỏ mạnh mẽ về tương lai đầy biến động của nền kinh tế toàn cầu và thậm chí còn hơn thế nữa!
#thương mại điện tử #quản lý sự thay đổi #nước đang phát triển #tái cấu trúc #tổ chức
Điều kiện tải trọng trong lý thuyết biến dạng cục bộ Dịch bởi AI
Mechanics of Composite Materials - Tập 3 - Trang 17-20 - 1967
Việc sử dụng lý thuyết biến dạng cục bộ [7, 8] cho phép mở rộng tiêu chí tải trọng đến các đường tải phức tạp nếu các điều kiện gia cường liên quan đến biến dạng cục bộ trên từng khu vực nhỏ riêng lẻ. Khi đó, các thành phần của gia tăng biến dạng nhựa tổng thể được xác định bằng cách tích phân chỉ trên những khu vực cục bộ mà điều kiện tải được thỏa mãn [9]. Kết quả cho thấy các thành phần của tensor biến dạng phụ thuộc đáng kể vào lịch sử tải trọng và điều kiện tải trọng được sử dụng. Những thay đổi trong các vùng tải trọng trên hình cầu đơn vị được nghiên cứu cho các trường hợp cụ thể của tải trọng phức tạp như một hàm của các điều kiện tải khác nhau và tham số tải trọng.
#lý thuyết biến dạng cục bộ #điều kiện tải trọng #gia tăng biến dạng nhựa tổng thể #lịch sử tải trọng
Tổng số: 30   
  • 1
  • 2
  • 3